Thursday
28
March
2024
Sunday, March 26, 201712:13 AM(View: 21880)
Đột quỵ hay tấn công vào buổi sáng, cần phòng tránh thế nào?
Wednesday, March 8, 20177:18 PM(View: 12954)
5 loại ung thư khó phát hiện sớm hiện nay Khoa học phát triển có thể phát hiện được nhiều loại ung thư từ rất sớm nhưng vẫn có rất nhiều bệnh ung thư khó có thể chẩn đoán khi mới manh nha và khi có dấu hiệu thì đã muộn Dưới đây là 5 loại ung thư khó phát hiện sớm hiện nay:
Saturday, August 6, 20161:10 PM(View: 16327)
Phương pháp thông dụng chữa bịnh tại Nhật Bản ngày nay là uống nước lọc ngay khi vừa thức dậy vào mỗi buổi sáng. . Cho các vị lớn tuổi, các bịnh nan y, cũng như các chứng bịnh thông thường, cách chữa bịnh uống nước lọc đã được tìm ra bởi ủy hội y học Nhật Bản với tỷ lệ cao đã chữa khỏi các chứng bịnh dưới đây:
Thursday, May 8, 201412:00 AM(View: 32701)
Cho thêm 3 cups mật ong vào dung dịch này, trộn đều và cho vào chai. Mỗi sáng sớm, uống một muỗng soup trước khi điểm tâm. Cứ uống đều đặn như vậy, các mạch máu ở tim sẽ được thông suốt, hết bị nghẽ
Tuesday, May 6, 201412:00 AM(View: 28095)
Vì vậy, mỗi chúng ta, nhất là những người lớn tuổi, buổi tối trước khi đi ngủ nên uống khoảng 200 ml nước (chừng một cốc), thì sáng ngủ dậy, không những máu không bị đặc mà còn loãng ra. Các chuyên gia y học cũng khuyên rằng, buổi tối trước khi đi ngủ uống nước khiến cho máu loãng ra, có lợi cho sự tuần hoàn của mạch máu, giúp phòng chống tai biến mạch máu não. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tai biến mạch máu não, sự đông đặc của máu tăng lên chỉ là một trong những nguyên nhân gây bệnh. Tuy nhiên, có thể khẳng định thói quen uống nước trước khi đi ngủ có tác dụng nhất định đối với việc phòng chống tai biến mạch máu não.
(View: 21745)
Tôi cầu xin: “Xin Mẹ cho vợ chồng con được sống với nhau 5 năm nữa.” Tôi không muốn tôi chết trước nàng, tôi không muốn nàng chết trước tôi. Nàng chết trước tôi không biết tôi sống ra sao. Tám mươi tuổi, tôi sống với nàng 60 năm, tôi sống dựa vào nàng. Tôi sống bằng Tình Yêu của nàng. Năm 1976 gặp lại nhau, Lê Trọng Nguyễn nói: “Tao không biết mày có đi được không. Tao cứ tưởng mày làm USIS là mày đi được. Hôm tao gặp thằng S. ở trong khu nhà mày, tao hỏi nó mày có đi được không? Nó nói mày không đi được. Tao kêu lên: “Làm sao nó sống? Nó sống bằng gì? ” S. nó nói: “Nó sống bằng Tình Yêu của vợ nó.”
(View: 22530)
Và còn biết bao việc làm khiến cho cha mẹ phải đau lòng . Nhưng họ đâu biết rằng , mình là người rất hạnh phúc , vì có biết bao người phải mồ côi cha mẹ , có muốn được cảm giác cha mẹ quan tâm cũng không được , còn chúng ta có thì không hề biết trân trọng, lại cho rằng cha mẹ thật phiền phức lúc nào cũng không cho ta làm việc này , làm việc kia .Bên cạnh đó cũng có nhiều bạn rất hiếu thảo với cha mẹ mình.
(View: 19595)
Ngước mắt vượt qua khung cửa sổ – ngắm nhìn những vì sao. Cảm nhận thật rằng bạn đang sống, bản lĩnh, mạnh mẽ và xứng đáng. Dù bất kì điều gì xảy ra, tất cả chỉ là bắt đầu – Với tất cả những gì vốn có đang chờ đón bạn ở phía trước trong ánh mắt lấp lánh niềm tin của ngày mới đang đến.
WEBSITE STATISTICS
2,319,686,071,854,749,159

Chữ nhẫn

Tuesday, October 26, 201012:00 AM(View: 78387)

“Chữ nhẫn là chữ tượng vàng.

Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu”

thanhgia_01-contentTrong đời bao nhiêu điều trở nên một chữ, một chữ lại là tích tụ của bao nhiêu đời, bao nhiêu dòng lịch sử, bao nhiêu kinh nghiệm của người đi trước. Nhẫn, một chữ biểu tượng cho cả một triết lý hài hoà. Nhẫn làm nên văn hoá gia đình. Nhẫn làm nên đạo lý của một dân tộc.

Chiết tự chữ nhẫn, ta thấy: Nhẫn bao gồm bộ tâm và bộ đao, đao là binh khí thời xưa hay gọi là gươm giáo. Bộ đao nằm trên bộ tâm, dụng ý từ nhẫn, là diễn tả tâm hồn người nào mang trái chiụ đựng được sức mạnh của những sóng gió tựa gươm đao, binh khí là người biết nhẫn. Chúng ta có thể gặp thấy nơi trái tim Mẹ Maria, người biết nhẫn, qua lời báo trước của cụ già Simeon và hình ảnh Mẹ đứng dưới chân Thập Giá:

"Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."[1].

Từ Triết lý nhẫn đến hồn hài hoà của dân tộc:

Sự tích “Âu Cơ” vọng về một quá khứ của cộng đồng Bách Việt chạy dài từ ven biển bán đảo Sơn Đông, qua ven biển vùng hồ Động Đình vốn xưa đã là trung tâm của họ Viêm đế Thần nông, gốc họ Hồng Bàng, qua vịnh Bắc Bộ, đến cửa Hội Thống, chỗ rẽ vào Ngàn Hống, nơi Kinh Dương Vương xây dựng Kinh thành. Hình tượng bọc Âu Cơ là hình tượng quả bầu Bách Việt, để truyền lại cho con cháu lời răn bảo:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống mà chung một giàn”

Lời nhắn nhủ ấy ăn sâu trong tâm thức người Việt, như vườn ươm hiếu hoà mà hôm nay hướng về “ngày cầu nguyện hoà bình trên thế giới” cùng ước nguyện.

Cây mầm hiếu hoà trên đất Việt sinh trưởng trong những hoàn cảnh đặc biệt, mang lại những hoa trái nhất định:

“Con một mẹ, hoa một chùm, Thương nhau nên phải bọc đùm lẫn nhau.”

Câu ca dao ấy, luôn luôn nhắc nhủ con cháu sau này, có lớn lên, có giàu, có nghèo, có đau, có phúc lấy nghĩa của tình thương mà đối xử với nhau. Ai cũng lớn lên trên cùng một đất mẹ, uống chung một bầu sữa, nói một tiếng mẹ và sống trong một tình mẹ chở che. Việc yêu thương nhau từ gốc một mẹ ấy mà sống thuận hoà với nhau.

“Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà chung một mẹ chớ hoài đá nhau”

Tình yêu thương kết nên mối hiếu hoà. Trong câu thường nói của người Việt Nam khi chỉ đến người khác, người Việt Nam thường nói đến từ ngữ “người ta”. Cụm từ đơn giản nhưng mang một ý nghĩa rất sâu sắc :Trong người có ta, trong ta có người. Người ở trong ta, ta ở trong người, khi chỉ đến người khác ta nhưng ta lại không khác người. Triết lý âm dương bàng bạc trong câu nói người Việt Nam để diễn dịch ý nghĩa “ trong âm có dương trong dương có âm”. Ảnh hưởng từ tư duy đến cách sống nên người Việt cũng lấy :”dĩ hoà vi quý” làm nguyên tắc sống hài hoà. Lấy nhẫn mà xử thế, đó là tích tụ của thời gian dài từ khi dựng nước cho đến tháng ngày giữ nước, bao nhiêu hiểm hoạ diệt vong đã nhiều lần nhận chìm dân tộc này, sở dĩ có được ngày thanh bình, có được một quê hương vuông tròn là nhờ tiên tổ đã nhẫn qua bao thời mà bảo tồn cho con cháu.

Chữ Nhẫn như bài thuốc hoá giải sự ác lành, và phân định giữa ánh sáng và bóng tối, làm sáng tỏ thật hư:” Đi lâu mới biết đường dài, ở lâu mới biết con người có nhân”.

Chữ nhẫn còn là chìa khoá để sống với nhau:

“Thương người như thể thương thân”. Chính từ lối tư duy ấy mà người Việt có lối sống quân bình. Hài hoà với thiên nhiên, hài hoà với con người, hài hoà với vạn vật để cuối cùng cho chính mình tìm thấy hạnh phúc.

Trọng tính hài hoà, để mưu cầu lấy phúc, người Việt ý thức rằng “không ai là một ốc đảo”, sống là sống chung, sống với, gắn liền cuộc sống của mình với người khác. Sự gắn bó này mạnh cho đến nỗi:”bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Làng nước là cụm từ quen thuộc nữa trên môi miệng người Việt. Từ phạm vi cá nhân cũng như phạm vi xã hội; từ việc cá nhân cũng như việc của cộng đồng cũng luôn sử dụng từ ngữ này. Nói chung Nước Việt ở trong vùng văn hoá nông nghiệp, nền văn hoá ấy được xây dựng trên nền tảng “Làng”, lấy văn hiến làng làm cơ sở kiến quốc. Từ ngữ làng gắn liền với nước là như thế. Khi hoạn nạn người ta kêu: “làng nước ơi”, khi nói ra cho mọi người, người ta cũng nói: “Trình làng nước”.

“xóm giềng là nghĩa chí thân, hoạn nạn tương cứu, phú bần tương tri”

Sống được với nhau hẳn đó cũng là một nền “nhân bản” đúng nghĩa Kitô giáo, theo Lời Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” .

Trong khung cảnh làng nước xưa ấy, không có cảnh thầy thợ, chủ tớ, bóc lột, bất công.

“cơm ăn chẳng hết thì treo, việc làm chẳng hết thì kêu láng giềng”

Người nhà quê có thói quen làm đổi công cho nhau, người nhà này sang làm cho nhà kia, đến bữa thì ăn chung, nhà có thì đãi đằng thêm món thịt, nhà chẳng có thì cơm canh cá cũng xong. Hết việc nhà nọ thì làm cho nhà mình hoặc nhà nào khác. Giả như trong nhà có việc tang hay cưới, làng xóm kéo đến, mỗi người một tay, ai biết gì thì phụ nấy, chẳng ai tính công, ai cũng coi việc nhà khác như việc nhà của mình. Tinh thần làng xóm hỗ tương đó, nào có mấy khi tranh chấp, cãi vã. Quê hương cũng thanh bình từ những cái tình ấy, nên mỗi quê cũng có những “đất lề quê thói” nào đó, nhưng tựu trung nét đặc biệt nhất mà có thể thấy được là tinh thần hiếu hoà: “lấy chín bỏ làm mười” để rồi tự răn mình:

Ở cho phải phải, phân phân. Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa”.

Cho nên cụm từ quen trên môi miệng “người ta” là kết quả trong cuộc sống giao hảo nhiều lắm. Từ khi ấy người ta biết sống và người ta cũng biết chết cho có ý nghĩa:

“Giúp nhau là nợ đồng lân. Trời đất xoay vần, kẻ trước, người sau.

Chưa ai ba họ cùng giàu. Chưa ai nghèo khó đến đâu ba đời.

Sống trên đời cùng nhau cấy cày, Thác buông tay giàu mấy cũng không !

Hay chi độc dạ tham lòng. Sao bằng để một tiếng “Trong” ở đời”.

Cái quan trọng trong đời sống cộng đoàn là có sống được với nhau không? Nếu không sống được với nhau người ta chỉ cón cách bỏ làng lên rừng mà sống một mình. Đời sống nông thôn có tính cách tập thể rất cao đưa tới sự Hiệp Nhất, hiệp nhất trong cùng một huyết thống, hiệp nhất trong cùng một xóm ngõ, đến hiệp nhất trong cùng một làng một nước. Chúng ta thấy tục giao hiếu giữa các làng xã là bằng chứng.

Theo tác giả Toan Ánh: “làng xóm Việt Nam có tục giao hiếu giữa hai hoặc nhiều làng. Về phương diện tế tự, sự giao hiếu giữa nhiều làng còn nhắm mục đích tương trợ lẫn nhau, hoặc tạo thân tình giữa dân những làng lân cận”. Giao hiếu cũng là cách thức bày tỏ tính cách hiếu hoà của người Việt xưa, người ta thường tổ chức lễ hội giao hiếu này vào Mùa Xuân, những làng giao hiếu tổ chức những đám rước quan viên lẫn nhau, gọi là rước giao hiếu. Làng này rước đến làng kia tuỳ theo năm làng nào đứng ra tổ chức thay phiên. Sau khi vào đình tế lễ thần, họ tham dự bữa tiệc, hát xướng với nhau.

Nếu có điều gì mích lòng nhau, người Việt xưa dùng cách nói khéo hay dùng những người có tài giao hảo làm trung gian để hoà giải. Không ai muốn nuôi giận mãi, bởi vì “Giận quá mất khôn”, hơn nữa vì một dòng máu con Việt : “Máu chảy đên đâu, ruồi bâu đến đấy” có ích gì khi người ta giận nhau.

Tinh thần làng nước xưa ấy tiếp nhận Tin Mừng Chúa Giêsu qua các vị Thừa sai tiên khởi, đã làm ngạc nhiên đối với nhiều người, đến nỗi người ta không biết gọi là đạo gì, nên gọi theo những gì người ta thấy, đó là “đạo những người thương nhau”. Trong tâm khảm người Việt đã có một mảnh đất tình thương màu mỡ, như mảnh đất sẵn sàng đón nhận và sinh hoa kết trái hạt giống Tin Mừng đón nhận.

Tính cách làng xóm xưa ấy, đẹp như hình ảnh của cộng đoàn tín hữu tiên khởi chứ có kém gì: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau” (Cv 3, 44). Cái giàu cái nghèo nếu biết đem chia sẻ cho nhau như trong tình làng nước thì xã hội chẳng công bình sao? Tự trong nền văn hoá dân tộc đã có một tiền Phúc âm, nếu lấy những nét đẹp trong truyền thống làm nổi bật tính Tin Mừng, thì thấy rằng Tin Mừng đã trở thành cuộc sống, ăn rễ sâu trong nền văn hoá rồi. Đức Hồng y Ratzinger nhận định rằng: “Đức Tin tự nó là văn hoá. Không có đức tin trần trụi, cũng chẳng có văn hoá thuần tuý”.

Nhẫn làm nên đạo lý tu thân, từ những quan niệm bình dân như thế, người Việt cũng nhắm tới việc đào luyện bản thân, trong cách ăn ở, lối cư xử, đến phẩm giá, đến nhân cách, chứ không để ý đến việc giàu nghèo hơn thua. Văn hoá gia đình xây dựng cốt lõi trên chữ nhẫn, có nhiều gia đình Việt treo chữ nhẫn như một tâm điểm nhắc nhở mọi người sống trong gia đình. Làm cha mà nhẫn thì dễ dàng tha thứ, làm mẹ mà nhẫn thì dưỡng dục được con, làm con mà nhẫn thì thông cảm được những cách xa của ý thức hệ, anh em nhẫn với nhau để làm nên mối thuận hoà. Thánh Phao Lô khuyên nhủ các tín hữu Corintho: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được”[2]. Tất cả những định nghĩa về lòng mến ấy lấy chữ nhẫn làm phương tiện diễn đạt lòng mến yêu. Đó chẳng là tiêu chí cụ thể cho đường tu hiếu mà người việt đã kinh nghiệm.

Nhẫn nại làm nên thành công, nhẫn nại làm nên ý chí và hình thành nên nghị lực, tu đạo nhân là thực hành chữ nhẫn hoàn thành chính mình và hoàn thiện được xã hội.

Kết quả của chữ Nhẫn làm nên tinh thần hiếu hoà của người Việt, là một điểm son trong nền văn hoá, ước gì truyền thống ấy ngày càng bén rễ sâu trong lòng dân tộc, nhất là nơi những người Kitô hữu, những người lãnh nhận sứ vụ xây dựng hoà bình trên trái đất.

 

LM Giuse Hoàng Kim Toan

(View: 56625)
Phàm ở đời hầu như ai ai cũng đều sợ chết hết, ngoại trừ những vị cao tăng đã thấm nhuần lý vô thường, những người có lý tưởng hy sinh, những người đau bệnh trầm kha nằm một chỗ, những kẻ mang tâm trạng chán đời trầm cảm cực độ, cũng như những kẻ bất bình thường mà thôi. Riêng cá nhân tác giả cũng sợ bệnh sợ chết như mọi người vậy. Nguyễn Thượng Chánh & Nguyễn Ngọc Lan
(View: 58437)
Một vấn nạn rất nhiều người đã hỏi, đó là tại sao Thượng Đế lại để cho thảm cảnh kinh khủng như thế xảy ra? Nói cách khác, tại sao Người cho phép đau khổ, sự chết đến với con người? LM. JOSEPH NGUYỄN THANH SƠN . Việt Báo Thứ Bảy, 9/15/2001, 12:00:00 AM
(View: 61696)
Thánh Phaolô nhắn nhủ các tín hữu thành Roma, "Không ai được sống cho mình và cũng không ai được chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa; nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa" (Rm 14:7-8). Tầm Xuân, CMC
(View: 61563)
Cái mà hôm nay mọi người cho là chân lý, ngày mai lại có thể là sai lạc. Lý trí con người khổ sở vô cùng trong khi đi tìm chân lý, và cho đến bây giờ con người vẫn nghi ngờ không biết rằng lý trí mình có thể có khả năng đạt đến chân lý hay không? Sự nghi ngờ đó cho thấy sự yếu kém của tri thức nhân loại. Và như vậy cái gọi là chân lý mà con người nhận thức được bằng tri thức giới hạn của mình không phải là chân lý đúng và toàn thể (chân lý tuyệt đối “?”) mà chỉ là những nhận thức có tính chất chủ quan và phiến diện. Vì vậy, có thể nói, tất cả những học thuyết triết học muốn giải nghĩa, giải thích ... toàn thể vũ trụ này cũng chẳng khác nào những lời mô tả con voi của những người mù sờ voi mà thôi??? Đi tìm chân lý ở đâu? Câu hỏi quá khó đau đầu thế nhân . Lý Lạc Long
(View: 56037)
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc, 6, 20), Trong Bài Giảng Trên Núi Đức Giêsu đã ban lời chúc phúc này cho tất cả các môn đệ và mọi người đi theo Chúa.
(View: 45699)
Dì chớp mắt vài cái, nét mặt mãn nguyện, nhắm mắt lại. Cô y tá vội đút ống thở vô. Dì Nati không tỉnh lại thêm lần nào nữa. Hai hôm sau, Kennah quyết định tắt mọi thứ máy móc chung quanh dì. Tôi tin rằng dì đã về nhà sau chuyến hành trình vất vả. Và tôi tin rằng nơi ấy, dì tìm được sự ấm áp của tình thương. Lê Tường-Vi